Trong bối cảnh an ninh năng lượng đặt ra nhiều thách thức, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) không chỉ hoàn thành sứ mệnh cung ứng than cho nền kinh tế mà còn tiên phong triển khai các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Từ đổi mới công nghệ, tối ưu hóa quy trình sản xuất đến phát huy sáng kiến của người lao động, TKV đã và đang coi tiết kiệm năng lượng là động lực then chốt để nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời hiện thực hóa mục tiêu phát triển xanh và bền vững.
Kỳ 1: Nhiều giải pháp sáng tạo, hiệu quả lan tỏa
Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) hiện quản lý gần 70 doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực than, khoáng sản, điện và vật liệu nổ công nghiệp. Đây là những doanh nghiệp thuộc nhóm tiêu thụ năng lượng trọng điểm của quốc gia. Không chỉ giữ vai trò cung ứng nguồn năng lượng cho nền kinh tế, TKV còn xác định tiết kiệm năng lượng là nhiệm vụ chiến lược. Những năm qua, Tập đoàn đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, sáng tạo, qua đó góp phần giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh và lan tỏa tinh thần sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả trong toàn hệ thống.
Nhân rộng các mô hình điểm
Trung bình mỗi năm, TKV sản xuất khoảng 35-40 triệu tấn than nguyên khai, chiếm 85% sản lượng khai thác than cả nước; nhập khẩu 5-10 triệu tấn; tiêu thụ 35-45 triệu tấn than thương phẩm, chủ yếu phục vụ sản xuất điện. Với quy mô lớn như vậy, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả trở thành yêu cầu bắt buộc để vừa nâng cao năng suất, chất lượng, vừa giảm chi phí sản xuất, kinh doanh. Thời gian qua, nhiều đơn vị của TKV đã triển khai đồng bộ các giải pháp tiết kiệm năng lượng, bước đầu mang lại kết quả rõ nét, giúp hạn chế lãng phí và gia tăng lợi ích cho doanh nghiệp.
Điển hình như Công ty CP Than Vàng Danh – TKV, đơn vị đã xây dựng và triển khai kế hoạch sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả ngay từ đầu năm 2025, với các chỉ thị và quy trình cụ thể áp dụng đến từng bộ phận. Công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức được thực hiện thường xuyên, coi đây là yếu tố then chốt để biến tiết kiệm năng lượng thành hành động tự giác hằng ngày.
Song song với tuyên truyền, công ty áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật: bố trí vận hành hợp lý, hạn chế thiết bị công suất lớn vào giờ cao điểm, không để máy móc chạy non tải hoặc không tải, duy trì hệ số cosφ ổn định. Đặc biệt, 21/28 máy bơm trung tâm đã được lắp khởi động mềm phòng nổ 6kV, các trạm quạt gió, tuyến băng tải lò giếng, thượng trục tải đều được trang bị biến tần và khởi động mềm. Hơn 200 biến tần và khởi động mềm hạ thế đã lắp đặt cho thiết bị trong hầm lò và nhà máy tuyển, giúp giảm tổn thất điện năng và ổn định lưới điện.
Ngoài ra, hệ thống điện mặt trời đưa vào vận hành từ tháng 9/2023 tiếp tục phát huy hiệu quả. Năm 2024, hệ thống cung cấp 75.272 kWh; 8 tháng năm 2025 đạt gần 50.000 kWh. Công ty dự kiến mở rộng lắp đặt tại trụ sở và khu sản xuất Lán Tháp trong năm 2026, khẳng định định hướng phát triển gắn với năng lượng tái tạo.
Nhờ các giải pháp đồng bộ, kết quả tiết kiệm năng lượng tại Than Vàng Danh rất khả quan. Năm 2024, tổng điện năng tiêu thụ đạt 86,59 triệu kWh, thấp hơn kế hoạch; tỷ suất tiêu hao điện đạt 26,64 kWh/tấn, tiết kiệm gần 1,93 triệu kWh (tương đương 3,3%). Riêng 7 tháng năm 2025, công ty tiết kiệm thêm 1,52 triệu kWh. Cùng với đó, việc kiểm soát chặt nhiên liệu dầu DO và xăng mang lại hiệu quả rõ rệt. Năm 2024 tiêu thụ 1,61 triệu lít dầu DO, giảm 190.000 lít so với kế hoạch. Các biện pháp như kẹp chì thùng nhiên liệu, cấp phát theo dung tích thực tế, giám sát bằng camera và GPS 24/24 giúp quản lý minh bạch, hạn chế thất thoát nguyên liệu dầu DO và xăng.
Ông Phạm Thế Hưng, Phó Giám đốc Công ty CP Than Vàng Danh, nhấn mạnh: Tiết kiệm năng lượng không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần quan trọng trong việc giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện điều kiện môi trường làm việc trong hầm lò. Năm 2025, Công ty đặt mục tiêu tiết kiệm tối thiểu 2% điện năng tiêu thụ, đồng thời tiếp tục giảm định mức dầu DO thông qua việc đầu tư công nghệ mới và thay thế dần các thiết bị lạc hậu.
Trong nhiều năm trước, tiết kiệm năng lượng ở Công ty Than Dương Huy – TKV thường mang tính tự phát, chủ yếu dựa vào các biện pháp thủ công như tắt thiết bị khi không sử dụng, bố trí ca kíp để hạn chế điện cao điểm, hay tuyên truyền nâng cao ý thức người lao động. Dù có tác dụng nhất định, song hiệu quả chưa cao, khó kiểm soát và thiếu cơ chế ràng buộc cụ thể. Tổn thất điện năng, nhiên liệu lãng phí và thiết bị cũ kỹ vẫn là bài toán nan giải.
Tuy nhiên, bước sang giai đoạn hiện nay, Công ty đã có sự thay đổi toàn diện khi xác định tiết kiệm năng lượng là nhiệm vụ chiến lược, gắn liền với đổi mới công nghệ và quản trị hiện đại. Chỉ tính riêng năm 2024 Công ty đã tiết kiệm được 2 triệu kWh điện tương đương gần 3,4 tỷ đồng.
Ông Bùi Xuân Phương, Phó Giám đốc Công ty Than Dương Huy – TKV, cho biết: Thời gian qua, nhiều hạng mục đầu tư đổi mới của công ty đã phát huy hiệu quả rõ rệt. Cụ thể, đơn vị đã lắp đặt và đưa vào vận hành trạm quạt gió chính loại mới tại MB +100, mã hiệu FBCDZ N032/2×710, điều khiển bằng hệ biến tần trung thế 6kV thay cho trạm quạt cũ tiêu hao nhiều điện năng. Song song, công ty đã đầu tư các bộ biến tần hãm tái sinh của Ba Lan cho băng tải B800 và tời cáp treo chở người, vừa tiết kiệm điện vừa hoàn trả năng lượng về lưới. Ngoài ra, 6 khởi động mềm 660V cũng được lắp đặt mới để thay thế cho khởi động từ trước đây, giúp các băng tải vận tải chính trong hầm lò vận hành ổn định hơn. Những giải pháp này không chỉ góp phần giảm tổn thất điện năng, tiết kiệm chi phí, mà còn hạn chế phát thải khí nhà kính và cải thiện điều kiện môi trường làm việc cho người lao động.
Với nhiên liệu, công ty kiểm soát chặt định mức, gắn trách nhiệm cho từng phương tiện và tổ sản xuất. Song song đó, thiết bị đã sửa chữa nhiều lần được loại bỏ, thay thế bằng động cơ mới hiệu suất cao. Tất cả được quản lý theo cơ chế khoa học, có số liệu giám sát, thay cho cách làm dựa vào kinh nghiệm như trước đây.
So với trước kia, khi tiết kiệm năng lượng chỉ là phong trào khuyến khích, thì nay đã trở thành chỉ tiêu bắt buộc, có kế hoạch cụ thể, có ban quản lý riêng và gắn liền với thu nhập, trách nhiệm của từng cá nhân. Ý thức của người lao động cũng được nâng lên rõ rệt, coi việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả là một phần trong văn hóa sản xuất.
Lợi ích kép
Trong hoạt động sản xuất than, chi phí cơ bản được cấu thành từ ba nhóm chính: nguyên, nhiên, vật liệu, chi phí nhân công và chi phí sản xuất chung. Đây là những khoản mục tất yếu để tạo ra một tấn than thương phẩm, đồng thời cũng là căn cứ quan trọng trong hạch toán giá trị sản phẩm. Để duy trì hiệu quả sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh và những biến động phức tạp của kinh tế toàn cầu, Tập đoàn đã triển khai nhiều giải pháp siết chặt quản lý, tiết giảm chi phí. Trong đó, nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào luôn được coi là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn nhất, đặc biệt đối với các đơn vị khai thác than lộ thiên.
Là một trong những mỏ khai thác lộ thiên quy mô lớn nhất cả nước, Công ty CP Than Cao Sơn hàng năm bốc xúc trên 50 triệu m³ đất đá và khai thác hơn 3 triệu tấn than nguyên khai. Hiện Công ty đang quản lý, vận hành hơn 402 thiết bị xe máy chuyên dùng chạy dầu diesel, cùng hệ thống băng tải, máy bơm thoát nước, máy xúc điện và giàn khoan điện công suất lớn. Khối lượng thiết bị đồ sộ ấy khiến mỗi năm Công ty phải tiêu thụ trên 80 triệu lít dầu diesel và khoảng 40–50 triệu kWh điện. Riêng chi phí năng lượng đã chiếm tới 65% trong cơ cấu giá thành sản phẩm, vì vậy tiết kiệm năng lượng được xem là “chìa khóa” để nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh của đơn vị.
Ông Phạm Quốc Việt, Giám đốc Công ty CP Than Cao Sơn, khẳng định: Trong bối cảnh chi phí năng lượng chiếm tỷ trọng lớn, chúng tôi xác định tiết kiệm là giải pháp then chốt để hạ giá thành, nâng sức cạnh tranh. Tiết kiệm ở đây không chỉ là giảm chi phí mà còn hướng tới sản xuất xanh, bền vững. Xuất phát từ quan điểm đó, những năm qua, Công ty đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp: Lắp đặt tủ khởi động mềm, biến tần cho động cơ bơm và máy xúc điện; áp dụng chế độ vận hành tiết kiệm bằng cách tận dụng tối đa giờ thấp điểm; cải tiến hệ thống bù công suất phản kháng; hạ vị trí xả thải của hệ thống bơm thoát nước để giảm điện năng tiêu thụ.
Song song với giải pháp kỹ thuật, Than Cao Sơn đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao ý thức tiết kiệm trong toàn thể cán bộ, công nhân. Giờ đây, những hành động tưởng chừng rất nhỏ như tắt thiết bị khi không cần thiết, vận hành xe máy đúng quy trình, tận dụng tối đa công suất thiết bị… đã trở thành nền nếp thường ngày trong sản xuất. Chính sự thay đổi từ nhận thức đến hành động ấy đã mang lại những kết quả rõ rệt: Giai đoạn 2023–2024, Công ty tiết kiệm được hơn 3,2 triệu kWh điện, tương đương trên 5 tỷ đồng. Bước sang năm 2025, mục tiêu được đặt ra là tiếp tục giảm tối thiểu 2% sản lượng điện tiêu thụ theo chỉ đạo chung của TKV.
Đối với nhiên liệu dầu Diesel, đơn vị áp dụng cơ chế phân cấp quản lý tới từng lái xe, gắn trách nhiệm sử dụng tiết kiệm với thu nhập của người lao động. Cùng với đó là việc triển khai phần mềm giao ca trực tuyến, giám sát GPS kết hợp cảm biến nhiên liệu cho toàn bộ 320 thiết bị vận tải và khai thác. Nhờ vậy, chỉ trong 2 năm gần đây, Công ty đã tiết kiệm được gần 1,2 triệu lít dầu, tương đương hơn 22,6 tỷ đồng. Năm 2025, Công ty tiếp tục đặt mục tiêu giảm khoảng 700.000 lít dầu, tương ứng 12 tỷ đồng.
Đáng chú ý, Than Cao Sơn luôn gắn công tác tiết kiệm năng lượng với đổi mới công nghệ quản lý. Hệ thống điều hành sản xuất hiện đại, giám sát online 24/24 kết hợp mạng lưới camera toàn mỏ không chỉ giúp kiểm soát chặt chẽ thiết bị, nhiên liệu mà còn nâng cao an toàn, an ninh khai trường. Nhờ đó, hoạt động tiết kiệm năng lượng của Công ty không chỉ đem lại lợi ích về kinh tế mà còn góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển bền vững, tạo nên “lợi ích kép” từ mô hình “3 giảm”: giảm chi phí, giảm tiêu hao và giảm phát thải.
Tại Công ty CP Than Hà Tu, để khai thác trung bình 2,5 triệu tấn than mỗi năm, đơn vị tiêu thụ khoảng 22 triệu kWh điện, tương đương chi phí 31–36,5 tỷ đồng. Với mức sử dụng lớn này, Than Hà Tu được xác định là một trong những đơn vị tiêu thụ năng lượng trọng điểm của TKV.
Để vừa tiết kiệm điện, vừa đảm bảo năng suất vận hành thiết bị, Công ty đã xây dựng phương án sử dụng năng lượng hiệu quả, tập trung trước hết vào nhóm thiết bị tiêu thụ điện lớn nhất. Riêng 12 máy khoan xoay cầu của mỏ tiêu thụ tới gần 5,6 triệu kWh điện mỗi năm. Từ năm 2024, Than Hà Tu đã thay biến tần khởi động mềm cho động cơ khoan, đồng thời chuyển đổi từ cầu dao dầu sang máy cắt điện chân không rơ-le kỹ thuật số. Nhờ đó, điện năng tiêu thụ cho mỗi mét khoan giảm xuống chỉ còn 0,3 kWh, bằng một nửa so với trước đây, giúp tiết kiệm trung bình khoảng 5 tỷ đồng tiền điện mỗi năm.
Không dừng lại ở kết quả trước mắt, Than Hà Tu đặt mục tiêu dài hạn là loại bỏ dần thiết bị lạc hậu, đầu tư thay thế bằng công nghệ hiện đại, đồng thời đẩy mạnh tin học hóa và tự động hóa trong quản lý. Đặc biệt, Công ty sẽ triển khai cơ chế khoán chi phí điện năng tới từng đơn vị trực thuộc, gắn với kế hoạch sản xuất cụ thể, phấn đấu tiết kiệm thêm 5 – 10% điện năng so với định mức Tập đoàn giao.
Những kết quả thực tiễn tại Than Cao Sơn và Than Hà Tu không chỉ giúp các mỏ than hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, mà còn góp phần quan trọng vào mục tiêu sản xuất xanh, bền vững của TKV.
Kỳ II: Quyết tâm từ chiến lược đến hành động
Giá năng lượng leo thang và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn buộc ngành Than phải thay đổi tư duy quản trị. Với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV), tiết kiệm năng lượng không chỉ là giải pháp ứng phó trước khó khăn mà còn là chiến lược then chốt để nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và hướng tới mục tiêu phát triển xanh, bền vững.
Chiến lược rõ ràng
Ngày 17/3/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 625/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đến năm 2030, định hướng đến năm 2045. Một trong những trụ cột quan trọng được xác định là ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, cơ giới hóa, tự động hóa và chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh, tiết kiệm năng lượng và phát triển bền vững.
Chiến lược này xác định những mục tiêu cụ thể: Giai đoạn 2021 – 2030, doanh thu đạt từ 130 – 200 nghìn tỷ đồng/năm, lợi nhuận 3.500 – 6.000 tỷ đồng/năm; giai đoạn 2031 – 2045, doanh thu tăng lên 200 – 300 nghìn tỷ đồng/năm, lợi nhuận 6.000 – 7.000 tỷ đồng/năm. Để hiện thực hóa các chỉ tiêu trên, TKV xác định không thể chỉ dựa vào mở rộng khai thác mà phải dựa trên nền tảng tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu suất, giảm chi phí sản xuất.
Trên cơ sở chỉ đạo của Đảng và Chính phủ về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, TKV đã xác định phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn là định hướng then chốt của các doanh nghiệp. Giai đoạn 2020 – 2024, Tập đoàn duy trì ổn định sản lượng than nguyên khai ở mức 38 – 40 triệu tấn/năm và than thương phẩm đạt 37 – 42 triệu tấn/năm.
Cùng với việc giữ vững sản lượng, TKV chú trọng các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên như lựa chọn đồng bộ thiết bị hợp lý để tăng tỷ lệ thu hồi than hạ trần, nâng cao khả năng mang tải nhằm giảm kích thước trụ bảo vệ, khai thác thu hồi than ở các trụ bảo vệ, tối ưu hóa sơ đồ công nghệ và tận thu tài nguyên từ những tàn tập trung có chất lượng phù hợp. Nhờ đó, hệ số thu hồi than trong khai thác hầm lò được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ tổn thất than hầm lò đã giảm từ 19,5% năm 2020 xuống 19,1% năm 2021, 19,0% năm 2022 và còn 18,9% vào năm 2024. Song song, tỷ lệ thu hồi than sạch cũng liên tục tăng, giữ ở mức 91% trong giai đoạn 2020 – 2022, tăng lên 91,1% năm 2023 và đạt 92,9% năm 2024. Những kết quả này khẳng định nỗ lực của TKV trong khai thác tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, gắn sản xuất với phát triển bền vững.
Song song với đó, Tập đoàn đặc biệt chú trọng cơ cấu lại tiêu thụ năng lượng, xây dựng định mức tiêu hao điện năng, nhiên liệu cho từng khâu sản xuất, áp dụng cơ chế khoán, kiểm soát chặt chẽ và liên tục cải tiến công nghệ. Trong 4 năm qua, nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp, TKV đã tiết kiệm được khoảng 0,09% tổng năng lượng tiêu thụ, tương đương hàng chục triệu kWh điện và hàng chục nghìn tấn nhiên liệu. Kết quả này không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt mà còn tạo nền tảng quan trọng để Tập đoàn tiếp tục chinh phục các mục tiêu tiết kiệm năng lượng trong giai đoạn tới.
Thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng”
TKV đã đặt mục tiêu cụ thể năm 2025 tiết kiệm 5 – 7% tổng mức tiêu thụ năng lượng, giảm tổn thất điện năng xuống dưới 6,5% và bảo đảm 100% các đơn vị trọng điểm áp dụng hệ thống quản lý năng lượng theo quy định. Giai đoạn 2026 – 2030, mục tiêu được nâng lên mức tiết kiệm 8 – 10% năng lượng và tổn thất điện năng dưới 6%. Trước áp lực giá nguyên liệu đầu vào tăng cao trong khi giá bán than cho điện chưa kịp điều chỉnh, các đơn vị ngành Than buộc phải thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Việc tiết giảm chi phí không chỉ giúp TKV duy trì lợi nhuận mà còn phù hợp với định hướng quản trị hiện đại, hiệu quả.
Ông Nguyễn Văn Tuân, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, cho biết: Để hiện thực hóa mục tiêu này, TKV triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết là quản lý chặt chẽ từ gốc: các công ty phải xây dựng kế hoạch tiết kiệm năng lượng hằng năm, khoán chi phí đến từng công trường, phân xưởng, giám sát và nghiệm thu định kỳ, gắn với cơ chế thưởng phạt minh bạch. Song song, TKV đổi mới công nghệ, thiết bị như sử dụng xe trọng tải lớn 91 – 96 tấn kết hợp máy xúc gầu 10 – 12 m³ để tăng năng suất và giảm tiêu hao nhiên liệu, lắp đặt máy biến áp phù hợp công suất, ứng dụng biến tần cho động cơ lớn, thay thế dần thiết bị cũ bằng thiết bị tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi hệ thống chiếu sáng sang đèn LED, tự động hóa dây chuyền sàng tuyển – chế biến. Trong điều hành, các mỏ áp dụng vận hành thông minh: không chạy bơm thoát nước vào giờ cao điểm, kiểm soát thông gió hợp lý, phát hiện và khắc phục kịp thời sự cố đường ống gió để duy trì hiệu suất.
Một hướng đi quan trọng khác là đẩy mạnh chuyển đổi số. Việc ứng dụng Big Data, AI, IoT cùng hệ thống SCADA, Wide SCADA giúp tối ưu hóa mọi khâu từ khai thác, vận tải đến chế biến và tiêu thụ. Công nghệ UAV cũng được dùng trong đo đạc địa hình 3D tại mỏ lộ thiên, mang lại dữ liệu chính xác cho quản lý và tiết kiệm năng lượng. Bên cạnh đó, TKV tập trung xây dựng hạ tầng năng lượng bền vững, chuyển đổi từ vận tải ô tô sang băng tải, đường sắt, đường thủy, nhờ đó giảm đáng kể chi phí nhiên liệu. Hiện các cảng nội địa của TKV có công suất 40 – 45 triệu tấn/năm, đáp ứng nhu cầu xuất – nhập khẩu than, góp phần tối ưu hóa logistics.
Tập đoàn cũng đẩy mạnh nội địa hóa thiết bị cơ khí, nhiều nhóm sản phẩm đã đạt trên 90%. Điều này không chỉ giảm phụ thuộc nhập khẩu mà còn chủ động hơn trong bảo dưỡng, sửa chữa, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng. Song hành với kỹ thuật, TKV xây dựng văn hóa tiết kiệm năng lượng trong toàn bộ cán bộ, công nhân viên, coi ý thức và thói quen tiết kiệm là nền tảng để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững.
Đặc biệt, TKV nghiêm túc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Các đơn vị tiến hành kiểm toán năng lượng định kỳ ba năm một lần để đưa ra giải pháp phù hợp. Tập đoàn còn đầu tư hàng loạt thiết bị, công nghệ như trạm biến áp thế hệ mới tổn hao thấp, thiết bị tự động điều chỉnh điện áp dưới tải, biến áp tự chỉnh áp, đồng thời nâng cấp điện áp từ 660V lên 1140V cho thiết bị công suất lớn trong hầm lò. Những giải pháp này giúp giảm tổn thất điện năng, đảm bảo chất lượng điện, nâng cao hệ số công suất, tiết kiệm chi phí vận hành.
Tiết kiệm năng lượng không chỉ giúp TKV giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn khẳng định vai trò tiên phong của Tập đoàn trong phát triển xanh, bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường và an ninh năng lượng quốc gia.
Phạm Tăng