Giải pháp giảm ô nhiễm, phát triển bền vững

Hàng năm tại Việt Nam ước tính có khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa thải ra môi trường, trong đó từ 0,28 đến 0,73 triệu tấn chảy ra biển, chỉ khoảng 27% lượng nhựa được tái chế. Sự gia tăng không kiểm soát của rác thải nhựa, cùng hàng loạt hóa chất độc hại và vi  nhựa đã và đang xâm nhập vào môi trường và cơ thể người.

Rác thải như chai nhựa có thể mất từ 450 đến 1.000 năm, ống hút hoặc nắp chai có thể mất 100–500 năm mới phân hủy hoàn toàn. Trong khi đó, ngành tái chế nhựa tại Việt Nam hiện vẫn còn nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, phân loại rác chưa thực sự hiệu quả: có tới 90% rác nhựa bị chôn, lấp hoặc đốt, chỉ khoảng 10% được tái chế đúng cách.

Tác hại của nhựa và vi nhựa đến sức khỏe con người không thể xem nhẹ. Nhựa tái chế nếu không được kiểm soát có thể chứa BPA, phthalate, kim loại nặng như chì, cadmium; vi nhựa có thể xâm nhập cơ thể qua đường hô hấp, tiêu hóa và tích tụ lâu dài, dẫn đến căng thẳng oxy hóa, rối loạn chuyển hoá, thậm chí là ung thư hay các bệnh tim mạch, vô sinh.

Vì vậy, việc sản xuất, sử dụng và tái chế nhựa phải thực hiện theo các tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm tra nghiêm ngặt và phân loại chất thải từ nguồn.

Việc tái chế rác thải nhựa theo công nghệ và tiêu chuẩn là giải pháp giảm ô nhiễm, phát triển bền vững. (Ảnh minh họa)

Một hướng đi đang được nhiều quốc gia và doanh nghiệp khởi xướng là biến rác thải nhựa thành vật liệu xây dựng, vật dụng nội thất, sản phẩm composite từ nhựa tái chế kết hợp với bột gỗ hoặc vật liệu khác, đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Khi nhựa tái chế được quy chuẩn sản xuất theo tiêu chuẩn kỹ thuật, được kiểm định, xử lý và tái sử dụng đúng chất lượng thì vừa giảm tải rác thải, vừa tiết kiệm tài nguyên, vừa chủ động tạo chuỗi giá trị từ môi trường đến kinh tế.

Tuy nhiên để đạt hiệu quả cần ba nhóm giải pháp đồng bộ: Khung pháp lý và tiêu chuẩn. Cần xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn quốc gia về nhựa tái chế – xác định rõ loại nhựa được tái chế, yêu cầu chất lượng, kiểm định, ghi nhãn và chứng nhận sản phẩm cuối. Đầu tư công nghệ tái chế hiện đại, thiết lập hệ thống thu gom – phân loại – tái chế sạch sẽ, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và môi trường.

Doanh nghiệp sản xuất nhựa tái chế phải đáp ứng tiêu chuẩn, kiểm soát chất lượng đầu vào và đầu ra. Hỗ trợ sản phẩm nhựa tái chế đạt chuẩn bằng chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ đổi mới công nghệ; đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về phân loại rác, ưu tiên sử dụng vật liệu từ nhựa tái chế đạt chuẩn.

Khi ba yếu tố này được thực hiện đồng bộ, việc biến rác thải nhựa thành nguồn nguyên liệu sạch và sản phẩm giá trị cao sẽ không chỉ là giải pháp môi trường mà còn là động lực phát triển kinh tế xanh. Việt Nam có cơ hội chuyển từ “người chịu thua” trước ô nhiễm nhựa sang “chủ động biến thách thức thành cơ hội”, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và môi trường sống lành mạnh cho thế hệ tương lai.

Liên quan tới việc tái chế nhựa, trước đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) thông qua Chương trình Đối tác hành động quốc gia về nhựa (NPAP) Việt Nam cùng Đại sứ quán Na Uy tổ chức hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới 2025 với thông điệp “Đánh bại ô nhiễm nhựa”.

Dự kiến, nếu được thực thi hiệu quả, Hệ thống Đặt cọc hoàn trả sẽ chuyển hướng tới 77.000 tấn chất thải bao bì khỏi các bãi chôn lấp hàng năm, cắt giảm 265.000 tấn phát thải CO₂e, đồng thời tạo ra khoảng 6.400 việc làm chính thức và 9.600 cơ hội trong khu vực lao động tự do về rác thải.

TCVN 13114:2020 “Chất dẻo – Chất dẻo có khả năng tạo compost – Yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử”

Tiêu chuẩn này đưa ra các yêu cầu cơ bản nhằm đảm bảo sản phẩm nhựa có thể phân hủy an toàn trong quá trình tạo compost và không gây hại môi trường. Tiêu chuẩn áp dụng cho các vật liệu và sản phẩm làm từ chất dẻo có khả năng tạo compost hoặc phân hủy sinh học trong điều kiện hiếu khí tại cơ sở ủ compost công nghiệp hoặc đô thị.

Một yêu cầu quan trọng là phân rã vật lý (disintegration): sản phẩm chất dẻo phải bị phân rã sao cho phần còn lại không thể phân biệt với vật liệu hữu cơ khác trong compost thành phẩm.

Về phân hủy sinh học hiếu khí (biodegradation), vật liệu phải được vi sinh vật phân hủy thành CO₂, nước, muối khoáng và sinh khối, với tối thiểu khoảng 90% carbon hữu cơ chuyển thành CO₂ trong thời gian thử nghiệm. Sản phẩm cũng phải không ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tạo compost hoặc thiết bị ủ. Vật liệu không được làm gián đoạn quá trình compost, không giảm chất lượng compost thành phẩm và không ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng.

Tiêu chuẩn yêu cầu giới hạn hàm lượng kim loại nặng và các thành phần nguy hại khác trong nhựa, bao gồm Cd, Pb, Ni, Cr, As, Se… nhằm đảm bảo an toàn cho môi trường và cây trồng. Một yêu cầu nữa là ghi nhãn sản phẩm. Sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn có thể dán nhãn “có khả năng tạo compost” hoặc “có khả năng phân hủy sinh học trong quá trình tạo compost” cùng thông tin về tổ chức sản xuất, số tiêu chuẩn, ngày tháng sản xuất.

Tiêu chuẩn cũng đưa ra các phương pháp thử nghiệm để kiểm tra yêu cầu trên, bao gồm: xác định hàm lượng chất rắn bay hơi, lượng kim loại nặng, thử phân rã và phân hủy sinh học theo chu trình hiếu khí, thử ảnh hưởng đến nảy mầm và sinh trưởng cây trồng trong compost mẫu.

Nhờ các quy định này, TCVN 13114:2020 đảm bảo sản phẩm nhựa thân thiện với môi trường, có khả năng phân hủy sinh học, thân thiện môi trường, hỗ trợ phát triển kinh tế tuần hoàn.

An Dương (T/h)

Nguồn: vietq.vn