24 C
Hanoi
Chủ Nhật, Tháng mười một 24, 2024
spot_img
Trang chủKHKT & VLXDCác xu hướng SCM năm 2024

Các xu hướng SCM năm 2024

Bài phỏng vấn của Peter Edwards, Global Cement Magazine
Đăng trên Tạp chí Global Cement Magazine số tháng 4/2024, Tr.10-13
Người dịch: Nguyễn Thị Kim Lan.

Dưới đây là bài phỏng vấn do Peter Edwards, Global Cement thực hiện với Ông Charlie Zeynel là Chủ tịch của ZAG International, một nhà tiếp thị quốc tế về nguyên liệu thô và các vật liệu trung gian, gồm cả các vật liệu kết dính phụ trợ (SCMs), với hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc. Trước khi thành lập ZAG, Charlie là Giám Đốc – Công ty Liên doanh tại Union Carbide for Asia Pacific và Phó Chủ tịch/Tổng Giám đốc tại Petromont, một liên danh UCC ở Montreal, Canada.

Global Cement (GC): Các nguồn cung SCM trên toàn cầu đã thay đổi như thế nào trong 12 tháng qua?
Charles Zeynel (CZ): Ở tầm vĩ mô, sản lượng sản xuất hai loại SCM chính, xỉ lò cao dạng hạt (GBFS) và tro bay đang có xu hướng giảm dần. Đó là do việc đóng cửa liên tục các lò cao và các nhà máy điện chạy bằng than tương ứng. Điều này đang tạo ra một điều gì đó ‘gấp rút’ cho tất cả các loại SCM.
Liên quan tới các lò cao, chúng ta đã được biết đến công bố Tháng 2/2024 rằng British Steel sẽ đóng cửa các lò cao của mình tại Scunthorpe ở Vương quốc Anh, có thể vào cuối năm 2024, cùng với công bố Tháng 1/2024 của Tata Steel sẽ đóng cửa hai lò cao còn lại tại Port Talbot, về cơ bản là loại bỏ toàn bộ hoạt động sản xuất GBFS ở Vương quốc Anh. Điều này đã dẫn đến sự tranh giành nguồn cung giữa các nhà sản xuất xi măng ở đó. Arcelor Mittal liên tục thực hiện hợp lý hóa trên toàn cầu, trong khi GBFS của Ukraina vẫn không giao dịch được do chiến tranh. Ở Nhật Bản, mới đây đã đưa ra những công bố về việc đóng cửa thêm hai lò cao vào năm 2027, một của JFE Steel và một của Nippon Steel. Canada cũng đã công bố đóng cửa ba lò cao. Trong khi đó, Ấn Độ lại công bố về các lò cao mới, nhưng đây thực sự là trường hợp ngoại lệ.
GC: Điều này đã ảnh hưởng tới nguồn cung và giá bán thế nào?
CZ: Nhu cầu đối với tất cả các loại vật liệu kết dính có hàm lượng CO2 thấp và bằng không vẫn còn cao, gồm cả GBFS, tro bay, puzolan tự nhiên, đất sét, .v.v… Thị trường của mỗi loại vật liệu này đang có sự liên kết phức tạp, ảnh hưởng lẫn nhau nhiều hơn so với trước đây. Điều này được thúc đẩy bởi các sáng kiến bền vững liên tục, cụ thể là Chương trình Kinh doanh Phát thải (ETS) của Liên minh Châu Âu, đang khuyến khích mạnh mẽ việc áp dụng các hỗn hợp có hàm lượng clinker thấp. Theo báo cáo tại một buổi hội thảo của ngành vào tháng 9/2023 rằng Châu Âu sẽ cần nhập khẩu hoặc ‘tìm kiếm’ thêm 20-30 triệu tấn SCM trong năm 2024 so với năm 2023 … nếu muốn đạt được các mục tiêu của mình.
Tùy thuộc vào nhu cầu hoạt động của thị trường địa phương, nhu cầu đến mức mà các nhà sản xuất ngày càng phải trả mức giá cao hơn đáng kể so với mức giá họ trả trước đây. Chúng ta đã chứng kiến một số trường hợp trong đó GBFS và tro bay có thể sẽ đắt đỏ hơn clinker.
Điều này mang lại các cơ hội cho một số nhà sản xuất thép ở Tây Âu và ở Nhật Bản, mà nhiều người coi là tiêu chuẩn vàng cho GBFS, để yêu cầu mức giá cao hơn cho sản phẩm của họ dựa trên chất lượng ổn định và hiệu quả sử dụng cao hơn. Điều này đã cho phép tất cả các nhà cung cấp khác, ví dụ ở Indonesia, Malaysia và Việt Nam, điều chỉnh tỷ lệ giá trị của họ cho phù hợp. Dường như có một mô hình mới đang phát triển trên thị trường GBFS trong đó người mua không chỉ so sánh giá bán GBFS với clinker và tro bay, mà còn cả với giá bán của các loại GBFS khác nữa. Một phong trào phân khúc thị trường rõ rệt đang diễn ra.
GC: Thế còn khối lượng giao dịch SCM thì sao?
CZ: Trung Quốc, một nước sản xuất thép lớn, đã dừng xuất khẩu GBFS khoảng 5-6 năm trước khi ngành xi măng của nước này đang bùng nổ và cần có SCMs, cùng với một số chính sách hạn chế xuất khẩu của chính phủ. Tuy nhiên mới đây, ngành xi măng của nước này đã rơi vào tình trạng ảm đạm, với sản lượng sản xuất giảm xuống còn 2 tỷ tấn trong năm 2023, mức thấp nhất của nước này kể từ năm 2010. Chúng ta thấy rằng Trung Quốc hiện đã khởi động lại rất nhiều hoạt động xuất khẩu GBFS, chủ yếu là sang các nước láng giềng trực tiếp của nước này ở Châu Á, nhưng ngày càng nhiều sang các thị trường xa hơn. Đó là do khối lượng tiêu thụ đáng kể hiện đang có sẵn cho xuất khẩu. Tuy nhiên, các hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc đang gặp phải một số trở ngại từ chất lượng thay đổi của GBFS Trung Quốc được cung cấp bởi rất nhiều nhà sản xuất thép khác nhau và phương thức giao dịch của hầu hết GBFS Trung Quốc. Không giống như ở nơi khác, GBFS ở Trung Quốc thường được cung cấp bởi các công ty trung gian địa phương chứ không phải do chính các công ty thép cung cấp, làm gia tăng mối lo ngại về chất lượng và độ tin cậy. Về cơ bản, giá bán và khối lượng tiêu thụ được chào bán trong ngắn hạn, khiến cho nó khó đảm bảo được các cam kết trong dài hạn. Điều này cũng gây ra nhiều rủi ro hơn về vận chuyển hàng hóa. Mặc dù các rủi ro cao hơn này, Trung Quốc đang gia tăng khối lượng xuất khẩu GBFS của mình với mức giá cực kỳ hấp dẫn.
Trong khi hầu hết các nhà quan sát đều tin tưởng Trung Quốc sẽ tiếp tục xuất khẩu GBFS và rằng đang có sẵn những lượng tiêu thụ đáng kể, thì thường lại có khả năng là chính phủ có thể bất ngờ đưa ra quyết định về các quy định hạn chế xuất khẩu hoặc, bằng cách khác, chính phủ có thể giảm bớt công suất lò cao, hoặc là một lần nữa dành nguồn cung cấp cho thị trường nội địa. Tình trạng không thể dự đoán được này sẽ thường phải được xem xét cân nhắc và là một phần trong hồ sơ rủi ro khi quyết định các chiến lược tìm nguồn cung ứng.
Như trên tôi đã đề cập đến Ấn Độ là một nước có thể sản xuất GBFS nhiều hơn đáng kể trong tương lai. Tuy nhiên, không rõ liệu loại này có được xuất khẩu thay vì được tiêu thụ trên thị trường nội địa hay không. Cũng có những câu hỏi đặt ra về khả năng xuất khẩu GBFS tin cậy của Ấn Độ, vì khoảng cách xa, hạ tầng cơ sở hậu cần nội địa hạn chế và các cảng lựa chọn hạn chế, kể cả khi đã có các động lực kinh tế. Điều đó vẫn đáng để mắt tới.

Một sự thay đổi lớn nữa đã quan sát được ở Bắc Mỹ, nơi mà ngành công nghiệp gang thép chính tập trung xung quanh vùng Mid-West. Theo truyền thống, thì không hiệu quả về kinh tế khi vận chuyển GBFS sản xuất ra tới các thị trường vùng ven biển, cả phía đông và phía tây, nơi đang có nhu cầu SCMs cao. Tuy nhiên, các lò cao hiện đang bị đóng cửa ở phía Canada. Điều này dẫn đến sự thay đổi về động lực của thị trường, vì khách hàng Canada đang có nhu cầu GBFS từ Mỹ, hoặc ở nơi khác. Việc vận chuyển hàng nhập khẩu qua Quebec tới phần phía tây của các thị trường Ontario đang đặt ra những thách thức do những hạn chế về hệ thống vận chuyển bằng đường sông hồ.
Một thay đổi nữa đó là đã diễn ra quá trình hợp lý hóa quyền sở hữu các nhà máy thép của Mỹ. Arcelor Mittal đã bán đi toàn bộ cơ sở tài sản của mình cho Cleveland Cliffs, hiện là một công ty chiếm ưu thế. Nippon Steel đã đưa ra đề nghị với US Steel, mà đang phải đối mặt với một cuộc chiến khó khăn với cả nghiệp đoàn lẫn các cơ quan quản lý Mỹ. Ngoài ra, chúng ta thấy các nhà máy nghiền mới đang được xây dựng ở gần các lò cao cũ tại các nhà máy vùng Mid-West, vì mong muốn giảm bớt lượng clinker giữa các nhà sản xuất xi măng lớn. Hiện đã có các nhà máy nghiền GBFS mới ở Houston, Texas, và Wilmington, Delaware, và có khả năng ở cả California nữa. Một số dự án khác đang được xem xét cân nhắc bởi các công ty đang tìm cách kiểm soát nhiều hơn các nguyên liệu của họ.

Cũng đang có sự nhận thức ngày càng lớn về việc Xi măng Đá vôi Portland (PLC) có thể không mạnh bằng hỗn hợp truyền thống do có tới 15% clinker đã được thay thế bằng vật liệu trơ. Toàn bộ điều này mang lại nhiều khả năng hơn phối trộn các SCM khác nhau, và việc tập trung vào hiệu quả sử dụng đòi hỏi sự hiểu biết tốt hơn về các loại GBFS khác nhau và các loại SCM khác.
GC: Thế còn các vùng khác trên thế giới thì sao?
CZ: Tôi đã đề cập đến Brazil như là một quốc gia cung cấp tiềm năng mới ở Nam Mỹ trong một trong những cuộc trò chuyện trước đây của chúng ta, ở đó Arcelor Mittal đã lên kế hoạch xuất khẩu tới 1 triệu tấn GBFS/năm. Tuy nhiên, nhu cầu SCM nội địa đã đủ cao nên nước này chỉ đơn giản là duy trì chương trình giảm xuất khẩu để duy trì khả năng tiếp cận một số khách hàng và thị trường quan trọng.
GC: Điều gì đang diễn ra với các thị trường tro bay?
CZ: Châu Âu đã khởi động lại một số nhà máy than chạy bằng than ngay sau khi xảy ra cuộc xâm lược Ukraine hồi tháng 2/2022, khi nước này ngừng sử dụng khí đốt của Nga. Điều này dẫn đến sự gia tăng mạnh lượng tro bay sẵn có, nhưng nó không kéo dài. Hiện nay, các nguồn cung tro bay tiềm năng duy nhất ở Châu Âu là ở Türkiye, nhưng lại không đủ. Chỉ có những lượng tro bay nhỏ được giao dịch trên toàn cầu.
Trong tương lai, nguồn tro bay lớn nhất sẽ là các hồ tro, mà, trong một thế giới giá trị SCM đang ngày càng tăng, sẽ ngày càng hiệu quả về kinh tế để khắc phục. Nhưng không phải tất cả các hồ tro đều được tạo ra đồng đều. Chúng ta biết đến một trường hợp ở Mỹ trong đó người vận hành chỉ đơn giản là cần phải sấy khô nguyên liệu là nó đã sẵn sàng cho nghiền rồi. Ở nơi khác, người vận hành đã khám phá ra rằng tro bay bị nhiễm bẩn bởi các sản phẩm phụ công nghiệp khác trong nhiều thập kỷ và trường hợp này có thể sẽ không hiệu quả về kinh tế. Hiện có hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu tấn tro trong lòng đất đang chờ được khắc phục. Có thể sẽ không dễ dàng, nhưng nó sẽ trở nên phổ biến hơn theo thời gian và sự nỗ lực.
GC: Các yếu tố toàn cầu đang ảnh hưởng ra sao tới việc kinh doanh SCM?
CZ: Có một số vấn đề xung quanh sự biến động của SCMs – và tất nhiên là rất nhiều hàng  hóa khác nữa. Cũng như cuộc chiến ở Ukraine, hiện có ít tàu quá cảnh ở Kênh đào Suez hơn do mối đe dọa của các cuộc tấn công của Houthi. Đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng sẽ mất thêm khoảng 30 ngày để di chuyển từ Châu Á sang Châu Âu, làm tăng chi phí GBFS ở Châu Âu.
Kênh đào Panama cũng hoạt động với công suất giảm đi đáng kể vì các hồ và sông cấp nước cho nó đã phải hứng chịu đợt hạn hán nghiêm trọng trong năm 2023. Điều này đã làm giảm công suất từ 44 tàu/ngày xuống dưới 20 tàu. Với sự ưu tiên dành cho tàu du lịch và Hải quân Hoa Kỳ, các công ty vận tải biển hoặc là buộc phải trả nhiều hơn tỷ lệ cược để có được một suất ưu đãi, đợi tới 3 tuần, hoặc là mất 30 ngày di chuyển quanh Mũi Hảo Vọng. Điều này cũng ảnh hưởng tới việc nhập khẩu GBFS vào Mỹ từ Châu Á, hầu hết thường tới thông qua Panama.
Không thể nói trước những thay đổi này sẽ “tạm thời” như thế nào, nhưng nó làm tăng thêm thách thức đáng kể cho các tàu chở GBFS. Cước phí vận chuyển đã tăng lên sau cuộc xâm lược Ukraine, nhưng hiện cước phí này lại cao hơn 30-40% do thời gian quá cảnh kéo dài hơn 20-40 ngày, tùy thuộc vào lộ trình chuẩn xác. Điều này cũng ảnh hưởng tới số lượng các chuyến tàu mà một chuyến tàu riêng lẻ có thể thực hiện trong một thời gian nhất định, điều này khiến việc tìm kiếm tàu chở hàng trở thành một vấn đề hết sức đau đầu.
GC: Ông mong đợi điều gì về tương lai của GBFS, tro bay và các SCM khác?
CZ: Chúng ta sẽ tiếp tục chứng kiến ‘một cuộc chạy đua tới vị trí đứng đầu’ giữa các công ty sản xuất xi măng hàng đầu để đảm bảo chất lượng cao nhất cho tất cả các loại SCM. Chúng ta đã nói đến trong nhiều năm rằng cuối cùng chúng ta sẽ phải điều chỉnh thế giới với việc càng ngày càng ít GBFS hơn. Nó sẽ không xảy ra vào ngày mai, nhưng sự giảm sút này sẽ duy trì trong một hoặc hai thập kỷ tới. Để đạt được các hỗn hợp xi măng ít và không có clinker, chúng ta sẽ tiếp tục nhìn thấy các SCM mới được gọi là SCM ‘tổng hợp’ xuất hiện. Các đột phá sẽ diễn ra vì chúng cần phải diễn ra và khao khát chắc chắn sẽ ở đó. Nếu các chính phủ, các doanh nghiệp và các nhà đầu tư dành đủ trí não, sự nỗ lực và tiền bạc vào việc này một cách đồng thuận và phối hợp với nhâu, điều này sẽ xảy ra!
GC: Cảm ơn ông đã dành thời gian cho hôm nay!
CZ: không có gì, Peter.

Bài viết liên quan

- Advertisement -spot_img

Xem thêm