Việt Nam mỗi ngày phát sinh khoảng 70.000 tấn rác thải sinh hoạt, cùng với đó là gần 4 triệu tấn rác thải nhựa, trong đó phần lớn không thể tái chế và có nguy cơ rò rỉ ra môi trường. Việc chuyển hướng xử lý rác thải sinh hoạt, rác thải nhựa khó tái chế khỏi bãi chôn lấp… để thay thế nhiên liệu hóa thạch trong lò đốt của ngành xi măng, vừa giảm phát thải khí nhà kính, vừa giảm sự phụ thuộc vào than, tất cả trong một giải pháp tích hợp.
Ông Hoàng Thành Vĩnh, đại diện Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam cho hay, mỗi ngày, trên cả nước ta phát sinh khoảng 70.000 tấn rác thải sinh hoạt. Cụ thể, TP Hà Nội phát sinh khoảng 7.500 tấn/ngày còn TPHCM lên tới 14.000 tấn/ngày. Tính theo khu vực, các đô thị chiếm 60% tổng lượng rác, còn 40% thuộc về nông thôn. Chi phí cho trung bình mỗi ngày, công tác thu gom và xử lý rác tiêu tốn khoảng 3,35 triệu USD, tương đương gần 1,2 tỉ USD mỗi năm. Hiện nay, phương pháp xử lý phổ biến nhất vẫn là chôn lấp (chiếm 64%). Các hình thức khác gồm sản xuất phân hữu cơ (16,1%) và đốt rác phát điện (12,69%). Đáng lo ngại, lượng rác thải dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh với tốc độ 10-15% trong ngắn hạn.
Trong khi đó, đối với rác thải nhựa, theo ông Palash Kumar Saha, cố vấn cấp cao SINTEF (một trong những viện nghiên cứu độc lập lớn nhất châu Âu) mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 40kg nhựa/năm, gấp 10 lần so với năm 1990. Hơn 3,5 triệu tấn rác thải nhựa phát sinh mỗi năm, trong đó 60-70% đưa vào hơn 1.180 bãi chôn lấp, phần lớn không hợp vệ sinh. Và tỉ lệ tái chế hiện nay chỉ khoảng 20%, chủ yếu tập trung vào nhựa PET (chai nước giải khát, bao bì thực phẩm) và HDPE (chai nhựa, can, ống dẫn nước), trong khi các loại nhựa dẻo khác hầu như chưa được tái chế. Thực trạng này đang góp phần gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Giới chuyên gia môi trường chỉ rõ, người lao động chủ yếu thu gom phần nhựa có giá trị cao để tái chế. Số lượng rác thải nhựa còn lại chủ yếu là chôn lấp, gây ra những tác hại do vi nhựa và ô nhiễm môi trường. Hiện các dự án đốt rác phát điện đang được triển khai mạnh ở một số địa phương. Vậy nhưng, thách thức lớn nhất đối với nguồn vào của những dự án đốt rác phát điện vẫn là việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn.
Ông Palash Kumar Saha cho biết, ngành xi măng với 61 nhà máy, 87 lò nung có khả năng đồng xử lý chất thải. Tuy nhiên, tỷ lệ thay thế nhiệt (TSR) hiện dưới 5%, ngoại trừ một số đơn vị đạt 35-40%. Cả nước mới có 13-15 dây chuyền được cấp phép đồng xử lý khoảng 5 triệu tấn/năm, đặt mục tiêu nâng TSR quốc gia lên 30% vào năm 2050. Nếu không có giải pháp quyết liệt, mỗi năm sẽ có khoảng 373.000 tấn nhựa phát thải ra biển, đến năm 2030 con số này có thể gấp đôi so với 2018. “Đồng xử lý đã được chứng minh là một giải pháp hiệu quả, có thể mở rộng quy mô, tiết kiệm chi phí và thân thiện với môi trường, điển hình qua dự án OPTOCE tại châu Á” – ông Palash Kumar Saha nói .