Tái cấu trúc công nghệ để giảm phát thải và tiết kiệm chi phí
Trước sức ép phải giảm phát thải và nâng cao hiệu quả sản xuất, nhiều nhà máy đã đầu tư cải tiến công nghệ. Lò quay thay thế lò đứng, hệ thống thu hồi nhiệt khí thải để phát điện, cùng với thiết bị kiểm soát điện năng được áp dụng rộng rãi. Một số doanh nghiệp cũng tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quản lý năng lượng, thực hiện kiểm toán định kỳ, đào tạo nhân lực chuyên trách tiết kiệm điện và nhiệt năng.
Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất xi măng để tăng năng suất và tối ưu chi phí. Ảnh minh họa
Từ năm 2020, Vicem phối hợp Tập đoàn FLSmidth (Đan Mạch) phát triển công nghệ “Zero emission – Natural cycle” (Không phát thải – tuần hoàn tự nhiên). Dự án hướng tới sử dụng rác thải đô thị làm nhiên liệu thay thế, góp phần ngăn ngừa ô nhiễm không khí, cải thiện chất lượng môi trường xung quanh. Đây là một trong những nỗ lực sớm nhằm đưa ngành xi măng tiếp cận với xu thế sản xuất bền vững toàn cầu.
Áp dụng biện pháp xử lý rác thải và công nghệ mới mở ra hướng đi xanh
Một công nghệ tiên tiến đang được thử nghiệm tại Việt Nam là khí hóa rác thải sinh hoạt trong lò nung clinker theo mô hình CKK (Cement Kiln Kawasaki) của Nhật Bản. Công nghệ này khai thác mức nhiệt cao trong lò nung xi măng từ 1.100 đến 1.450 độ C để phân hủy hoàn toàn các thành phần độc hại trong rác thải, kể cả dioxin, đồng thời chuyển hóa thành năng lượng khí đưa trở lại lò nung. Tro xỉ còn lại cũng được tận dụng làm nguyên liệu cho xi măng, không gây ô nhiễm thứ cấp.
Tại Nhà máy Xi măng Bút Sơn, mỗi ngày khoảng 10 tấn rác được xử lý bằng công nghệ này, giúp giảm nhiệt bức xạ từ 1,5-2,5 độ C tùy khu vực. Ở TP.HCM, việc xử lý khoảng 120.000 tấn rác/năm giúp giảm đáng kể chi phí nhiên liệu.
Tương tự, Nhà máy Xi măng Lam Thạch (Công ty Cổ phần Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh) đã triển khai đề tài “Đồng xử lý chất thải rắn thông thường làm nguyên nhiên liệu thay thế”. Rác được thu gom từ mô hình “Ngân hàng gửi rác lấy tiền – VRACBANK” và từ các cụm công nghiệp, sau đó được xử lý khép kín để đưa vào lò nung clinker. Công nghệ này giúp tiết kiệm 0,8 tấn than cám cho mỗi tấn rác thải được đưa vào lò, đồng thời làm lợi cho doanh nghiệp khoảng 13,2 tỷ đồng mỗi năm.
Dây chuyền sấy chất thải rắn công nghiệp làm nguyên liệu thay thế. Ảnh: Bạch Đằng
Dù tiềm năng chuyển đổi xanh là rất lớn, nhiều doanh nghiệp vẫn gặp rào cản về cơ chế chính sách. Việc chất thải sinh hoạt chưa được phân loại từ đầu nguồn gây khó khăn cho công đoạn sơ chế và xử lý đồng bộ. TS. Hoàng Dương Tùng – nguyên Phó cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận định: “Chúng ta có thể chủ động về công nghệ, nhân lực. Vấn đề còn lại là cơ chế để thúc đẩy triển khai hiệu quả”.
Trong bối cảnh Việt Nam chính thức triển khai thử nghiệm hệ thống giao dịch phát thải khí nhà kính (ETS), ngành xi măng cùng với thép và nhiệt điện chiếm khoảng 50% tổng phát thải CO₂ sẽ phải mua hạn ngạch phát thải theo từng đơn vị sản phẩm. Điều này buộc các doanh nghiệp phải nhanh chóng đầu tư vào công nghệ sạch nếu muốn duy trì lợi thế cạnh tranh.
Việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh không chỉ là xu hướng tất yếu, mà còn là cơ hội giúp ngành xi măng Việt Nam nâng cao năng lực, tiếp cận thị trường quốc tế trong bối cảnh ngày càng nhiều quốc gia siết tiêu chuẩn về phát thải và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Nếu có sự đồng hành mạnh mẽ từ chính sách Nhà nước, các mô hình tiên phong hiện nay hoàn toàn có thể được nhân rộng, đưa xi măng trở thành một trong những ngành dẫn đầu chuyển đổi xanh trong công nghiệp Việt Nam.
Duy Trinh